Hôm nay,  

Nhớ An Lộc - Chuyện Người Thương Binh Bị Bỏ Quên

07/07/201200:00:00(Xem: 11610)
Bốn mươi năm qua, cứ mỗi lần nhắc đến mùa hè đỏ lửa, tôi lại nhớ ký sự chiến trường của Phan Nhật Nam, một bút ký vừa hào hùng vừa bi kịch được viết bằng máu và nước mắt của quân dân vùng Trị Thiên tuyến đầu lửa đạn. Nó trung thực và xúc động lòng người đến độ nhà văn Bảo Ninh, người bên kia chiến tuyến, tác giả Nôĩ Buồn Chiến Tranh (một tác phẩm nổi tiếng đã được nhà sản xuất ngoại quốc chuyển thể thành phim) đã phải thừa nhận, nếu tôi được đọc Mùa Hè Đỏ Lửa của PNN, chắc tôi không viết Nỗi Buồn Chiến Tranh như tôi đã viết. Lý do chính là ông ta không ngờ ở một góc chiến trường phía nam vĩ tuyến 17 lại có một đội quân chiến đấu can trường cao độ và sức chịu đựng vô bờ bến của những người dân Trị Thiên trong lửa đạn vào thời điểm mùa hè 72.

Tất nhiên cũng thời điểm này hình ảnh Trị Thiên mới chỉ là một nửa của bức tranh toàn cảnh chiến trường miền Nam. Đi sâu vào miền đông Nam bộ, vùng đất của những rừng cao su ngút ngàn người ta lại bắt gặp tính chất ác liệt của một cuộc đụng độ vô tiền khoáng hậu của cả hai phe, mà cuộc tử thủ An Lộc và biểu tượng Bình Long anh dũng có thể được xếp loại như những chiến dịch hàng đầu trong quân sử VNCH khi cuộc chiến sắp hồi kết thúc. Rất tiếc cánh quân này, góc chiến trường này không có các phóng viên chiến trường tầm cỡ như PNN nên hình ảnh hào hùng và cái gía tổn thất của nó đã không được quảng bá và đánh giá đúng mức cho dư luận quần chúng miền Nam hồi đó.
nho_an_loc_thuong_phe_binh
Thương binh từ trận An Lộc. Bên hông là vết thương.
Nhân kỷ niệm bốn mươi năm sự kiện Bình Long anh dũng, tôi không đủ khả năng viết lại những cảm xúc một thời về gương hy sinh cao độ của những người lính tử thủ hàng trăm ngày đêm tại một vùng đất đỏ của chiến trường miền Đông, mà về sau dấu tích của nó không còn là màu đỏ của đất mà là của máu, máu của cả hai phe cùng gà một mẹ nhưng đã quần thảo và giữ chân nhau khi chiến trường bất phân thắng bại, để cuối cùng những người phương Bắc phải bỏ cuộc khi không thể quật ngã những người lính gan lì của miền Nam.Tất nhiên sự tổn thất về nhân mạng và chiến cụ chia đều cho cả hai bên, rồi nhiều năm sau khi nhìn lại, bất giác tôi nhớ vài câu thơ của một người lính cũ ngậm ngùi hồi tưởng về cuộc thư hùng năm ấy.

Ba mươi tháng tư / cuộc chiến tàn
chiến trường xưa / một thời lửa đạn
rừng cao su / cháy xem ngút ngàn
xác anh em / nằm sâu trong An Lộc
nay chỉ còn / vỏ đạn với xương khô…

Người chết đã là một lẽ, trong chiến tranh là điều không tránh khỏi, nhưng cái bi kịch là những người mang thương tật, kể cả mang phế tật suốt đời, tôi muốn nói những người lính VNCH bị bỏ lại bên lề cuộc đời sau khi chiến tranh chấm dứt, mà một trong những câu chuyện khá thương tâm vừa cay đắng rơi vào số phận của một anh lính bộ binh thuộc Sư đoàn 5, đơn vị chủ lực trong chiến dịch tử thủ và chịu nhiều tổn thất nhất trong mùa hè cay nghiệt của chiến trường miền đông năm 72.

Tôi không quen biết anh mà sự gặp gỡ là một chuyện tình cờ khi anh là tài xế xe ôm tại một thị xã nằm bên bờ sông Cửu. Còn tôi là một cựu binh xa quê nhiều năm nên làm một chuyến trở về thăm nơi quê cha đất tổ tìm lại những ký ức tuổi thơ trên những dòng kênh quen thuộc.Qua thăm hỏi tôi biết anh là một người lính cũ của Sư đoàn 5 Bộ Binh, một đại đơn vị có tới hai ôngTư lệnh (một cựu, một đương nhiệm) tuẫn tiết trong ngày 30/4. Ngày ấy anh mang cấp bậc hạ sĩ, ngành thám báo, được tham gia chiến dịch An Lộc mùa hè 72, cũng lãnh đạn pháo của địch và chịu trận cùng đồng đội trong suốt thời gian cánh quân của tiểu đoàn anh chốt trên tuyến đầu của vòng đai tử thủ. Bốn mươi năm trôi qua nhưng anh vẫn nhớ như in những tiếng nổ chát chúa của đạn pháo, những tiếng máy bay gào thét khi sà xuống để oanh kích yểm trợ quân ta mà lằn ranh ta và địch kề nhau trong gang tấc, rồi những ngày hết lương khô, những đêm mất ngủ vì địch chỉ pháo kích về đêm, những ban ngày ló mặt lên hầm là bị bắn sẻ, ôi những ngày nửa như địa ngục, cơ cực nhưng tiểu đội anh quyết tâm trần thân chịu trận.


Rồi đến một đêm sau hồi pháo kích, anh nghe tiếng động như của xe tăng, tưởng thiết giáp của ta không ngờ là tăng của địch, đơn vị anh bị tràn ngập lúc nào không hay,về sau nhớ lại anh chỉ biết một mảnh đạn pháo xuyên qua hông và chui sâu vào cơ thể làm anh mất máu và ngất xỉu. Anh đi dần vào hôn mê chỉ mơ hồ nghe như có những giọng Bắc cùng bước chân lùng sục của ai đó trên chỗ anh nằm giữa chiến trường bốn bề im vắng.

Không biết anh nằm bất động bao lâu, chỉ biết khi tỉnh dậy anh thấy khát nước và toàn thân ê ẩm, yếu sức quá đến độ anh không thể ngồi dậy để tự mình kêu cứu, mà có kêu được thì cũng chẳng ai tiếp cứu khi quanh con mương anh nằm chỉ toàn tử thi và tiếng vỗ cánh của lũ quạ đen. Anh biết anh sẽ không qua khỏi tử thần nếu cứ nằm đây và chịu trận như vậy. Tuyệt vọng, anh muốn được quay lại tình trạng hôn mê và mong cái chết đến mau hơn.

Nhưng lạ thay, nghe đâu đây như có tiếng động của các bàn chân trên lá khô, có cả tiếng người mà qua âm sắc anh nghe văng vẳng như có cả tiếng Việt lẫn tiếng người Thượng. Biết chắc là tiếng người anh ráng sức đưa bàn tay lên cao hơn, cố rên mạnh hơn dù chỉ ngoắc ngoắc làm hiệu nhưng cũng làm anh mệt lử. Nhưng chính động tác vô vọng này lại cứu anh.Thì ra đây là toán thám kích của một trại Dân sự chiến đấu của Mỹ, họ đi ngang đây không hiểu với nhiệm vụ gì. Về sau nghe học lại có cả cố vấn Mỹ đi theo, biết được tình trạng nguy kịch của anh viên cố vấn cho gọi trực thăng tiếp cứu, thay vì đem về một quân y viện gần nhất thì chẳng hiểu sao anh lại được tải thưong ra tận…hạm đội 7 đóng ở ngoài khơi bờ biển Việt nam. Lúc này đơn vị anh vì không lấy được xác lính mình ra khỏi chiến trường nên đã báo cáo anh trong danh sách những quân nhân mất tích.

Anh được điều trị vết thương và săn sóc tận tình khỏang nửa tháng, khi ổn định họ lấy số quân và đơn vị của anh rồi trao trả về Tổng y viện Cộng Hòa để điều trị tiếp. Có điều lạ là trên chuyến trực thăng về Cộng Hòa, các thương binh được hoàn trả đều là lính thuộc phe ta đã ra khỏi An Lộc trong tình trạng thập tử nhất sinh như anh.

Khi hoàn toàn bình phục anh được xếp thương binh loại hai, anh có quyền xuất ngũ và hưởng trợ cấp thương phế binh. Nhưng tuổi còn quá trẻ, lại nhớ đồng đội anh xin được về đơn vị cũ. Người ta cho anh về hậu cứ tiểu đoàn đóng tại Lai Khê, phục vụ tiếp cho đến khi toàn quân buông súng.

Sau 30/4, anh về qưê lập gia đình, làm đủ nghề nuôi sống bản thân, do ảnh hưởng vết mổ nên không kham nổi lao động ruộng vườn, tới thời mở cửa anh quay ra thị xã làm phụ lơ xe rồi trụ lại tài xế xe ôm cho đến khi gặp người khách phương xa.

Qua suốt câu chuyện, tôi ghi nhận anh không hề than van, chẳng hề tiếc nuối mà coi mọi sự như đưa đẩy của số phận. Tôi có gợi ý cho biết lý lịch và giấy tờ tùy thân còn giữ được trao cho tôi để khi quay lại Cali tôi hứa sẽ liên lạc dùm tổ chức từ thiện TPB/HO của bà Hạnh Nhân xem giúp gì được anh, chí ít cũng được chút tiền ủy lạo như các thương phế binh còn sống tại quê nhà mà tổ chức này đã thường xuyên hỗ trợ qua sự quyên góp của cộng đồng.Từ giã anh tôi có tặng một chút tiền và cũng xin phép anh tôi có ý định viết câu chuyện về anh nhân kỷ niệm 40 năm Bình Long An Lộc. Anh vui vẻ đồng thuận và xin ông thầy đừng đưa thằng em lên quá cao.

Nay viết lại mấy dòng này như một hồi niệm trân trọng những người đã nằm lại An Lộc và như một nhắc nhớ nhiều số phận kém may mắn vẫn còn bương chải giữa dòng đời đen bạc khi tiếng súng đã ngừng gần bốn thập niên trên quê hương nát tan.

Đỗ Xuân Tê
(viết theo lời kể của Năm Út) 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thời gian còn làm Trung Sĩ Thông Dịch Viên trong Bộ Tư Lệnh Lục Quân Hoa Kỳ ở căn cứ Long Bình, Việt Nam vào năm 1969, trước khi tôi được chuyển sang phục vụ trong ngành phi hành của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, thì tôi có dịp tháp tùng phái đoàn Dân Sự Vụ (Civic Action) Lữ Đoàn 18 Quân Cảnh Hoa Kỳ (U.S. 18th Military Police Brigade) đi công tác ở Nhật Bản. Cũng trong chuyến công du này tôi đã phát hiện ra rằng, Nhật Bản là một quốc gia thực thi được chính sách phát triển kinh tế làm thịnh vượng cho toàn thể xã hội, và xóa bỏ được nhiều điều bất công...
Trong bất kỳ cuộc đấu tranh nào, cần phải phân loại, xác định rõ ràng các loại “địch” để tìm cách đối phó hoặc vận động gây cảm tình làm đồng minh, tùy loại địch. Mọi người thường nói, “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng” là vậy.
Chỉ trong vòng 465 ngày (26/04/2024-17/01/2023) đảng CSVN đã trải qua 3 cuộc khủng hoảng lãnh đạo thượng tầng chưa từng có trong lịch sử. Người duy nhất vẫn “vững như bàn thạch” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, 80 tuổi, nhưng ai sẽ thay ông Trọng để lãnh đạo đảng, sau Đại hội toàn quốc tháng 01 năm 2026 là câu hỏi chưa có câu trả lời...
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.