Tối thứ sáu ngày 2 tháng 3 năm 2012 tại chùa Phổ Hiền (thành phố Garden Grove, tiểu bang California), Phật tử Việt nam tại vùng Little Saigon đã được hưởng một thời pháp vô cùng lợi lạc từ đại sư Thupten Phelgye, vị sáng lập Phong Trào Phổ Từ, một tổ chức Phật giáo cổ võ ăn chay và lòng từ cho hoà bình thế giới. Đây là buổi giảng mở đầu cho chương trình hoằng pháp 3 ngày của ngài tại chùa Phổ Hiền. Mở đầu buổi thuyết pháp, đại sư đã bày tỏ niềm hân hoan được gặp gỡ và chia sẻ Phật pháp với Phật tử Việt nam, một dân tộc có tín ngưỡng Phật giáo lâu đời. Ngài hết lời khen ngợi những thành quả về kinh tế và xã hội của cộng đồng Việt nam và đồng thời cũng khuyến khích Phật tử Việt nam nên nổ lực tạo nên những thành tựu về tâm linh và văn hóa để truyền trao giá trị tinh thần và tâm linh cho thế hệ con em của mình, giúp cho các em có được một đời sống cao đẹp hơn, tránh xa những lối sống điên đảo của xã hội hôm nay. Qua đó, Ngài đề nghị thành viên trong Việt Nalanda Foundation gắng công hình thành Viện Phật Học Nalanda tại Hoa Kỳ để nghiên cứu và ứng dụng giáo pháp của các dòng truyền thừa Phật giáo.
Sau đó, đại sư Thupten Phelgye đã đi vào đề tài của buổi giảng đó là sám hối và hồi hướng theo đúng chánh pháp. So sánh giữa hai nền văn minh Tây phương và Đông phương về quan niệm tội lỗi, ngài nhận xét người Phật tử thuờng có bản năng rất mãnh liệt nhận biết lỗi lầm của mình và có phương cách để tịnh hoá những ý niệm, lời nói, và hành vi bất thiện của mình. Đơn cử như truyền thống sám hối mỗi 15 ngày trong tháng của Phật giáo theo đó giới xuất gia cũng như Phật tử tại gia thường thiết lễ sám hối trong đó vị tu sĩ hay người cư sĩ quán chiếu và nhớ lại những hành động bất thiện của mình và khẩn cầu ăn năn hối cải. Sám hối là thanh tịnh thân khẩu ý, thú nhận từ sâu thẳm đáy lòng và nhận chân được mình đã làm gì sai và khởi tâm kiên quyết tịnh hoá lỗi lầm.
Đại sư nhấn mạnh là hành động sám hối phải chân thành. Chân thành với chính mình. Nếu không thì sám hối chỉ là hình thức và nghi thức mà thôi. Sự tịnh hóa vì thế không thể đầy đủ. Đi sâu vào triết lý của đạo Phật, đại sư giải thích rằng theo Phật giáo, không có gì là bản tánh xấu xa cả. Ngay cả tội lỗi bản chất của nó cũng là tốt vì khi mình lỡ phạm một hành vi bất thiện nào mà mình nhận ra được hành vi này thì hành vi đó thì lỗi lầm này đã giúp mình tịnh hoá bản thân. Một ví dụ là trong trường hợp khi mình lỡ xúc phạm một cách thô bạo một người bạn. Nếu sau đó mình bỏ mặc anh hay chị ta thì hành động đó tạo tác hận thù và nghiệp báo chất chồng. Thế nhưng nếu ngay sau khi xúc phạm ai đó, mà ta nhận biết được hành vi bất thiện này và biết xin lỗi thì hành vi đó sẽ được tịnh hoá. Hành động bất thiện đã tạo cho ta phát khởi tâm hối hận, ăn năn, không làm điều ác nữa. Sự chân thành phát xuất từ sâu thẳm trái tim cộng với thái độ khiêm cung, biết lỗi của mình sẽ làm tươi mát cơn nóng giận của tha nhân. Sám hối là mở lòng ra nhận biết lỗi lầm và đối trước Tam Bảo cầu xin sám hối. Người sám hối phải thành tâm quán chiếu và làm công việc tịnh hoá tâm mình không ỷ lại tha lực tha thứ tội mình.
Kế tiếp đó Ngài nói về hồi hướng. Hồi hướng phải xuất phát từ nhận thức và cảm xúc mãnh liệt về tâm giác ngộ (Phật tâm) và muốn hồi hướng trọn vẹn thiện hạnh của chúng ta cho chúng sanh trong mười phương để họ cũng đạt được Phật tâm này. Khi hồi hướng, nếu chúng ta chỉ tụng đọc không thôi những văn hồi hướng do các vị thầy trước tác mà không phát khởi được tâm thức vị tha hoàn toàn không điều kiện cho tất cả chúng sanh thì cũng giống như chúng ta diễn kịch mà không phải đời thật. Hồi hướng đúng chánh pháp rất khó vì tâm chúng ta thường còn vị kỹ, lúc nào cũng đầy rẫy cái tôi và cái của tôi. Làm sao để phát khởi Bồ Đề Tâm và hồi hướng cho tất cả chúng sanh để họ có thể đạt được Phật tâm? Đại sư đã đưa ra hai phương cách của hai vị Đạo sư là ngài Tịch Thiên (Shantideva) và ngài Atisha. Ngài Tịnh Thiên sử dụng lối tiếp cận trực tiếp và lý trí. Hành giả phải hiểu tự thân và tha nhân. Từ hiểu biết này hành giả nhận ra tha nhân là quan trọng hơn mình. Mình chỉ là một trong khi chúng sanh là vô số để hoán chuyển ngã tha. Một phương pháp tu luyện là Tonglen (Tông là cho đi niềm hạnh phúc cho tha nhân và len là nhận lại khổ đau của họ). Đạo sư Atisha thiết lập 7 điểm chuyển hoá tâm trong đó bước đầu tiên hành giả quan sát tất cả chúng sinh là bà mẹ trong vô lượng kiếp của mình. Từ hai phương pháp tu học trên, đại sư Thupten Phelgye kết luận rằng sự thực hành Phật pháp phải đưọc thực hiện trong cuộc sống hằng ngày chứ không phải chỉ qua những lễ nghi trong tự viện không thôi. Mật Tông không phải chỉ là tụng chú mà là thiết lập mối quan hệ với một vị Hộ Phật hay Bổn Tôn để được khai ngộ và thể nhập những phẩm chất cao thượng của vị Hộ Phật này, và để cuối cùng là thị hiện như một vị Hộ Phật trong chính cuộc đời này.
Đại sư nhấn mạnh điều quan trọng của sự xem xét động lực của mỗi người trong vấn đề tu học. Tu học để đạt Phật quả vì lợi ích chúng sanh là tối thượng. Nếu chỉ tu để thành Phật thì chưa đủ mà phải là thành Phật VÌ lợi ích chúng sanh. Muốn có tâm như vậy, chúng ta phải quy y và tránh vướng mắc vào cái tôi. Quy y là phải nương về Tam Bảo và hiểu rõ về Tứ Diệu Đế, phát khởi tâm xả ly, chán ghét luân hồi, và cuối cùng là đạt được Phật quả. Để làm được những điều trên, Ngài khuyên Phật tử đầu tư thời gian ít nhất nữa tiếng đồng hồ mỗi ngày cho việc thực hành pháp. Phật tử nên quán chiếu và tự hỏi xem mình có đủ sự thành khẩn? có đủ động lực? có thành thật không? có thật sự muốn thành Phật vì lợi ích của chúng sanh hay không? Đừng chỉ hài lòng với lễ nghi bề ngoài không thôi mà phải tạo sự thay đổi thật sự trong tâm. Từ từ, công phu tu tập này sẽ thấm nhuần trong tâm thức và hành giả sẽ cảm thấy không cần phải dụng công nhiều như trước nữa.
Cuối cùng, vị sáng lập phong trào Phổ Từ này đã chia sẻ thật cảm động và chân thật trãi nghiệm của Ngài về vấn đề ăn chay. Ngài cho thính chúng biết là ngài sinh trưởng trong một gia đình du mục và có lối sống ăn thịt rất nhiều. Thời niên thiếu, ngài thường rất thích ăn thịt. Có khi thấy thịt mà chưa kịp nướng, chàng thiếu niên này đã nhiều lần ăn cả thịt sống. Nhân duyên đưa đẩy, một ngày kia, ngài có dịp đi ngang một lò sát sinh và tận mắt nhìn thấy sự sát hại kinh hoàng và nổi thống khổ của những con vật đáng thương. Hình ảnh đó phát khởi lòng từ bi nơi ngài và từ đó ngài đã phát nguyện ăn chay và cổ võ cho tình thương đối với muôn loài. Bằng kinh nghiệm bản thân, ngài cho biết ăn thịt cũng chỉ là khái niệm trong tư tưởng. Nếu tâm mình nghĩ mình còn cần ăn thịt, thì mình sẽ tiếp tục ăn thịt. Nếu mình nghĩ mình không cần ăn thịt, thì mình có thể ăn chay được. Đối với một người tu hành phát khởi tâm thương chúng sanh, muốn chúng sanh thành Phật thì việc trước tiên phải là đừng nhai ăn chúng sanh. Nếu chúng ta không ăn thịt, thì lò sát sanh cũng không giết thịt. Ăn thịt là giết hại sinh linh. Ngài chia sẻ thêm là sau khi ngài bỏ ăn thịt, thì ngài cũng đã độ được mẹ ngài trường chay. Cụ bà nay đã 85 mà vẫn còn rất khỏe mạnh. Hiểu được sự khó khăn của bỏ thịt (cũng giống như bỏ một tật xấu hay một chứng nghiện), ngài đề nghị quý Phật tử thực tập từng bước một và tập ăn những món chay bỗ dưỡng và ngon miệng. Ngài cũng nói về những hiểm họa của hormone kích thích trong việc nuôi gia súc lấy thịt và lợi ích sức khỏe của ăn chay.
Suốt gần 3 tiếng đồng hồ ngồi chăm chú lắng nghe mà thính chúng cảm thấy thời gian như đi quá nhanh. Từng lời pháp như mưa thấm nhuần làm tươi mát tâm hồn của Phật tử hiện diện. Mọi người ở lại đến giờ chót để được đảnh lễ và cúng dường ngài. Đại sư Thupten Phelgye thuyết giảng bằng tiếng Anh rất dễ nghe mặc dù trước khi giảng ngài nói đùa là tiếng Anh của Ngài là pick up English (tiếng Anh lượm nhặt mỗi nơi một chút). Lời dạy của ngài được chị Sue-Sue dịch ra tiếng Việt thật đầy đủ. Văn phong dịch thuật quá tuyệt vời của chị giúp thính chúng thọ nhận pháp âm của đại sư một cách dễ dàng và an lạc. Xin tri ân Đại sư đã từ bi quang lâm và ban bố một thời pháp nhũ thật lợi lạc cho chúng sanh. Bài tường trình này nếu sai ở điểm nào là do lỗi của người tường trình. Nguyện xin sám hối mọi lỗi lầm và hồi hướng tất cả phước lành đến pháp giới chúng sanh đều trọn thành Phật đạo.